Gần đây, chuyện hậu trường của một số chương trình giải trí truyền hình đã kéo giới truyền thông vào cuộc. Những ồn ào dư luận ấy được lý giải dưới nhiều góc độ, trong đó có cả chuyện kinh doanh, thị trường. Đôi nơi, đôi chỗ trong các cuộc bàn luận trên truyền thông ấy, có ý kiến đổ tội cho “truyền hình thực tế”. Vậy, truyền hình thực tế là gì và liệu “nó” có phải là tội đồ trong các scandal làm tốn giấy mực dân báo chí thời gian qua?
Đôi điều về một khái niệm
Truyền hình thực tế (reality television) không phải là một thể loại truyền hình mà là một phương thức làm truyền hình mới, có nhiều điểm khác với cách làm truyền thống vốn nặng về dàn dựng, sắp xếp và có sự can thiệp sâu của nhóm thực hiện, kể cả khi đó là chương trình được truyền trực tiếp.
Truyền hình thực tế ra đời với “triết lý” là cố gắng chống sự giả tạo, làm thế nào để ống kính có thể ghi được những tình huống, hoàn cảnh và sự kiện thật, ít sắp đặt trước. Ít sắp đặt chứ không phải không sắp đặt, tất nhiên tùy thể loại được sản xuất. Ví dụ, phóng viên theo chân một nhóm cảnh sát vào ổ tội phạm để săn bắt cướp, nếu đoạn clip ghi hình có những chỗ phản cảm, trước khi phát sóng, nhà sản xuất cũng sẽ cắt bỏ.
Điều nhiều người hay nhầm lẫn lâu nay là đồng nhất các chương trình giải trí theo phương thức mới này với “truyền hình thực tế”. Nhưng trên thế giới cũng như ở Việt Nam, phương thức truyền hình thực tế được áp dụng cho rất nhiều thể loại như tin tức, phóng sự, tọa đàm, trò chơi, phim tài liệu… Một trong các dạng truyền hình thực tế có tính giải trí được nhiều đài trên thế giới khai thác và hiện rất phổ biến là hình thức Quay lén (Hidden cameras) hoặc Chơi khăm (Hoaxes). Nhà sản xuất tạo ra một tình huống để ghi lại phản ứng bất ngờ của nhiều người khi gặp tình huống đó nhằm tạo ra tiếng cười. Tất nhiên, những clip ghi lại đều được sự đồng ý sau đó của nhân vật bị ghi hình mới được phép phát sóng.
Nhân vật chính trong các chương trình thực tế rất phong phú: có thể là những người bình thường, chọn ngẫu nhiên hoặc những khán giả tự giác tham gia, hoặc những những nhân vật nổi tiếng được lựa chọn theo những tiêu chí riêng của từng chương trình. Đó có thể là những cá nhân được lựa chọn tham gia vào một cuộc thi tài năng, kiến thức, hay vận động, hoặc chỉ là vô tình rơi vào những tình huống chơi khăm trớ trêu.
Công nghệ sản xuất tạo cho khán giả cảm giác các nhân vật của chương trình đang sống thật trong tình huống, không hề ý thức rằng mình bị ghi hình, và câu chuyện, diễn biến của chương trình, tác phẩm thường có những điểm bất ngờ thú vị.
Trong sân chơi toàn cầu hóa
Hiện cũng chưa ai khẳng đinh truyền hình thực tế ra đời từ lúc nào bởi sự phát triển của phương thức mới này là một quá trình, quá trình ấy có sự tự hoàn thiện. Nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhau rằng ý tưởng làm truyền hình thực tế bắt đầu từ nước Mỹ và được gợi ý từ… phát thanh vào thập niên 1940.
Từ những năm 1990 đến nay, truyền hình thực tế đã trở thành một hiện tượng trên toàn thế giới với sự bùng nổ với hàng loạt chương trình lớn như Survivor (Người sống sót), American Idol (Thần tượng Mỹ), Top Model (Siêu mẫu), Dancing with the stars (Khiêu vũ với sao), The Apprentice (Người học việc), Fear factor (Yếu tố sợ hãi), Big brother (Đại ca)…
Big Brother là chương trình truyền hình trong đó nhân vật tự nguyện tham gia là những người cặp nam – nữ sống chung trong một căn nhà trong suốt 10 tuần trong những điều kiện thiếu thốn. Mọi sinh hoạt “từ A đến Z” trong suốt 24/24h của các nhân vật đều được ghi hình và chọn để phát cho khán giả xem. Khán giả bình chọn cho các cặp và hàng tuần sẽ có những cặp thí sinh bị loại vì ít phiếu. Đôi thắng cuộc sẽ được giải thưởng rất cao.
Ở châu Á, Hãng truyền hình Nippon (Nhật) cũng đã thành công với một show về trẻ em với tên gọi Hajimete no Otsukai (được biết đến ở Việt Nam với phiên bản Con đã lớn khôn). Chương trình kể về kinh nghiệm đầu đời của một đứa trẻ khi không có ba mẹ bên cạnh. Những ứng xử hết sức ngây thơ hồn nhiên của các diễn viên nhí có sức thu hút người xem rất cao bởi ai cũng đã từng là trẻ con. Hay chương trình Family Outing (Hàn Quốc) với sự góp mặt của hàng loạt ngôi sao nổi tiếng như Hyori Lee, Kang Dae Sung (Big Bang), Yoo Jae Suk, Kim Soo Ro, Kim Joong Kook… Nội dung chương trình là chuyến đi dã ngoại về vùng quê của một “gia đình”, họ đến nhà một nông dân và ngủ lại, làm việc chăm chỉ như một nông dân thực thụ, từ gặt lúa, cho gia súc ăn, kéo lưới bắt cá, thu hoạch trái cây, cho đến cả lợp mái nhà… Hoặc You are the one là chương trình truyền hình thực tế của Đài Truyền hình Giang Tô (Trung Quốc) phát sóng vào 2010 dành cho 24 cặp nam nữ độc thân tìm hiểu và chọn đối tượng thích hợp cho mình.
Cùng với quá trình xã hội hóa và nỗ lực tìm tòi của ngành truyền hình Việt Nam, truyền hình thực tế đã có mặt ở Việt Nam hơn 7 năm qua. Đầu năm 2005, VTV3 có Khởi nghiệp cũng thu hút nhiều bạn trẻ. Cũng trong năm này, Vượt lên chính mình, Ngôi nhà mơ ước của HTV được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Nhưng có thể nói, Phụ nữ thế kỷ 21 (phát sóng 2006) mới thật sự là chương trình có “chất” truyền hình thực tế đầu tiên ở Việt Nam. Bấy giờ, chương trình này tạo được sự chú ý bởi tính tươi mới, chân thật và thẳng thắn. Lần đầu tiên trên sóng truyền hình Việt, các nhân vật trong một cuộc thi được thoải mái bộc lộ quan điểm và cá tính…
Sau những bước tìm tòi các format truyền hình thực tế thuần Việt chưa được thành công, các chương trình chuyển nhượng bản quyền từ nước ngoài liên tục đổ bộ vào các kênh lớn ở Việt Nam như Vui là chính (Just for laughs), Vietnam Next Top Model, Vietnam’s Got Talent, Bước nhảy hoàn vũ (Dancing with the stars), Cặp đôi hoàn hảo (Just the two of us), Vietnam Idol, Hành trình kết nối những trái tim (Love ride) v.v…
Nguyên nhân của nguyên nhân
Phóng sự thực tế, phim tài liệu thực tế, talkshow thực tế ở Việt Nam cũng đã ra đời nhưng chưa có những chương trình, tác phẩm gặt hái thành công lớn. Đa phần khán giả biết đến truyền hình thực tế qua các chương trình giải trí được chuyển nhượng bản quyền từ nước ngoài.
Công bằng mà nói, cũng có nhiều những chương trình thuần Việt ít nhiều khai thác phương thức truyền hình thực tế rất thành công, đặc biệt ở khía cạnh nhân văn, nhân đạo: Như chưa hề có cuộc chia ly, Ngôi nhà hạnh phúc, Lục lạc vàng, Vượt lên chính mình, Khởi nghiệp, Sinh ra từ làng, Cầu Vồng v.v…
Nhưng đó không phải là sự thành công về doanh thu.
Nếu quan sát kỹ có thể thấy những nhãn hiệu quảng cáo có sự phân cấp rõ rệt trong các giữa các chương trình có bản quyền nước ngoài (thường một thương hiệu nổi tiếng tài trợ toàn bộ) và những chương trình “made in Vietnam”. Cả những chiến dịch truyền thông cho các chương trình cũng có sự phân cấp như thế.
Những chương trình truyền hình thực tế vừa gây tiếng vang vừa có được sự tài trợ lớn, thu hút nguồn quảng cáo cao đều là các thương hiệu truyền hình được chuyển nhượng bản quyền từ nước ngoài.
Idol là thương hiệu giải trí truyền hình thành công vào hàng bậc nhất trên thế giới với hơn 40 phiên bản ở các quốc gia. Mỗi năm, có hàng trăm ngàn người trên thế giới tham gia Idol để được thể hiện bản thân, để trở thành “thần tượng”. Về bản chất, đây chỉ là cuộc thi hát đơn ca trên truyền hình nhưng format chương trình tạo được sự cộng hưởng cao từ khán giả không chỉ từ chuyện âm nhạc. Có thí sinh chỉ hát vài câu. Hát không có dàn nhạc đệm. Nhưng cái “độc” của chương trình xuất phát từ phần thể hiện của thí sinh, phần tương tác giữa ban giám khảo và chuyện hậu trường của thí sinh. Những chi tiết “ngoài âm nhạc” này có khi góp phần quan trọng trong lá phiếu bình chọn (qua SMS) của khán giả đối với nhiều thí sinh. Giữa lúc khán giả đã bội thực những cuộc thi nặng chất hàn lâm, vốn chỉ là sân chơi cho những người đã ít nhiều được đào tạo thanh nhạc, Idol như làn gió mới đánh trúng tâm lý số đông: vừa thích thể hiện mình, vừa ngại thể hiện mình trên truyền thông.
Nhưng không chỉ có thế, các chương trình giải trí theo phương thức truyền hình thực tế mua bản quyền nước ngoài có chi phí sản xuất khá cao nên cần phải thu hồi vốn. Các nhà sản xuất ở Việt Nam cũng không quên khai thác kinh nghiệm sản xuất từ nhiều nước trên thế giới: chương trình càng tạo nhiều scandal với những ý kiến trái chiều trong dư luận, càng tăng rating người xem, càng tăng quảng cáo.
Vietnam Idol những năm qua có khá nhiều sự cố ồn ào: chuyện hiểu lầm giữa Siu Black và thí sinh Sơn Lâm, thông tin Uyên Linh nói xấu bạn thi, Đăng Khoa tung băng ghi âm “chửi thề” của Đức Anh… Bước nhảy hoàn vũ mùa thứ nhất có chuyện Ngô Thanh Vân dọa bỏ thi ngay trước đêm chung kết, mùa thứ hai có sự cố Thu Minh đạo ý tưởng trong đêm thi điệu samba. Vietnam’s Got Talent có sự cố đình đám liên quan đến Quỳnh Anh, thí sinh tuyên bố hát được 6 thứ tiếng và bà Nguyễn Thị Ngọ, mẹ của thí sinh này, qua một đoạn chương trình “ngoài lòng kịch bản” mà nhà sản xuất không cắt bỏ để tăng tính “thực tế” cho chương trình và qua những lá đơn kiện cáo được báo chí khai thác. Vietnam’s Next Top Model 2011 cũng ồn ào trên các trang mạng chuyện ban tổ chức cố tình sắp xếp sự đấu đá đố kỵ giữa các thí sinh trong chương trình. Hoặc gần đây, sự cố lộ clip có giọng nói của Phương Uyên, nguyên giám đốc âm nhạc của Giọng hát Việt (The Voice) để tố cáo sự sắp đặt, can thiệp của nhà tổ chức vào kết quả cuộc thi cũng là ví dụ tương tự.
Do nhu cầu thu hút sự quan tâm của khán giả mục tiêu, do đặc điểm của truyền hình thực tế, do thỏa thuận đã ký giữa các nhân vật và nhà tổ chức, những người sản xuất có quyền khai thác hình ảnh và chọn lựa những tình huống “thực tế” đặc biệt để phát sóng, khai thác những chuyện bên lề, thậm chí “khai thác” cả giới truyền thông để tạo sự quan tâm của dư luận. Và, nhà sản xuất cũng lường trước “hiệu ứng” của tình huống ấy sau khi phát sóng.
Lâu nay, chuyện lạm dụng scandal để thu hút công chúng không phải chỉ có ở các chương trình giải trí theo phương thức truyền hình thực tế và đây cũng không phải là chuyện mới mẻ gì.
Trên làn ranh nhân văn mong manh
Một scandal truyền hình thực tế lâu nay thường gắn liền với các hoạt động truyền thông trên nhiều phương tiện khác để khai thác những tranh cãi, xung đột ồn ào xung quanh các nhân vật (giám khảo, thí sinh, người nhà thí sinh, nhà sản xuất). Và nhờ đó, chương trình càng có sức thu hút, tăng rating khán giả. Thực tiễn sản xuất chương trình truyền hình giải trí trên thế giới cho thấy, những nhà tổ chức giỏi nghề không khó để có thể tạo ra các chiêu nhằm gây cảm giác khó chịu hay bất bình cho một bộ phận công chúng.
Nhiều người vì muốn được nổi tiếng, muốn được thể hiện mình thông qua vài phút xuất hiện trên màn ảnh nhỏ mà đã vô tình tự hạ thấp giá trị của bản thân hoặc trở nên cực kỳ lố bịch trong chương trình. Nhiều người vì quá bức xúc, tức giận (hoặc bị tức giận) có thể phát biểu rất “sốc” và quên mất hoặc không biết mình đang bị ghi hình ở hậu trường sân khấu. Nhiều nhân vật có hoàn cảnh éo le đã không hề biết mình được khai thác nhằm “lấy nước mắt khán giả”
Việc sử dụng hình ảnh của thí sinh, giám khảo trong chương trình là “quyền” của nhà sản xuất nhưng những sự chọn lựa chất “thực tế” như thế cũng cần được cân nhắc trên cơ sở đạo đức làm nghề, trên khía cạnh nhân văn của một chương trình giải trí.
Tất nhiên, sự cân nhắc “nên hay không nên” như thế không dễ dàng. Và chuyện dư luận có những ý kiến trái chiều cũng là điều dễ hiểu. Mặt khác, với một chương trình đang thu hút, “con dao hai lưỡi” của scandal có thể làm tổn hại đến uy tín nhà sản xuất nếu nó gây sốc, thất vọng, mất niềm tin khi công chúng đột nhiên phát hiện ra mình bị lừa dối, phát hiện ra những chuyện thiếu minh bạch. Theo ThS. Cù Thị Thanh Huyền, giảng viên Trường Cao đẳng PTTH 2, sự sắp đặt trong truyền hình thực tế cần có tiêu chí. “Tiêu chí ấy với tôi là tính nhân văn. Nhân văn trong từng sự chọn lựa chi tiết, từng cú máy, từng khung hình, cỡ cảnh; nhân văn trong kết cấu chương trình, trong mức độ nhận xét, trong sự chăm sóc và cảnh báo đối với thí sinh tham gia dự thi”, bà Huyền nhấn mạnh.
Đường đến chuyên nghiệp
Truyền hình thực tế vào Việt Nam còn mới mẻ và phải có thời gian để “nhập gia tùy tục”. Cũng như hiện nay, người Việt Nam chưa chấp nhận nổi hình ảnh đôi tình nhân hôn nhau nơi công cộng xuất phát từ quan niệm, từ văn hóa phương Đông, nhiều chương trình truyền hình thực tế có thể thích hợp với nước ngoài nhưng lại không thích hợp, thậm chí gây phản cảm đối với khán giả Việt Nam. “Vui là chính” là một ví dụ.
Thường cái mới bao giờ cũng không dễ chấp nhận cho nên một bộ phận khán giả phản ứng những gì mà họ cho là trái với quan niệm, phong tục tập quán lâu đời cũng là chuyện dễ hiểu. Ví dụ: Hình thức “tự thể hiện bản thân” của thí sinh hoặc cách phản ứng tự nhiên của Ban Giám khảo đối với nhiều khán giả hiện nay trong Vietnam Idol đôi lúc vẫn là chuyện thiếu “tế nhị”.
Nhưng, nói như thế, không có nghĩa là chúng ta phủ nhận một phương thức làm truyền hình mới trong quá trình hội nhập của truyền hình Việt. Truyền hình thực tế là môt xu thế, một lựa chọn bởi đó là sản phẩm của văn minh nhân loại.
Cần có cái nhìn đúng về một phương thức sản xuất nói chung, không nên dựa vào một vài hình thức, thể loại chương trình để “vơ đũa cả nắm” khi lên án.
Quá trình chuyên nghiệp hóa truyền hình ở Việt Nam những năm qua chứng minh năng lực tự hoàn thiện của đội ngũ làm truyền hình trong nước. Chúng ta tin rồi đây, sẽ có những chương trình truyền hình thực tế “made in Vietnam” có thể chuyển nhượng bản quyền cho nước ngoài, sẽ có nhiều nhà sản xuất biết Việt hóa triết lý “truyền hình thực tế” trong các chương trình mới để góp phần vào nhu cầu thông tin, giáo dục, giải trí của lớp khán giả mới vốn có nhiều quyền chủ động khi tham gia truyền thông, có nhiều kênh để “phát biểu” với nhà sản xuất, nhà đài.
Filed under: CHUYỆN NGHỀ | Tagged: CHUYỆN NGHỀ | 3 Comments »